TÔN GIÁO ĐÃ ĐI ĐẾN ĐÂU

 

TÔN GIÁO ĐÃ ĐI ĐẾN ĐÂU

Trần Quốc Luyện

 

          Tôn giáo là sự tin tưởng ở một thế giới vô hình, do một thần lực huyền bí cai quản có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến đời người, và là nơi mà linh hồn người ta sau khi chết sẽ đến đó. Tôn giáo định nghĩa rộng như thế, là một thông tính linh cảm chung cả loài người, nó là một bản năng đặc biệt của giống người để cảm thông với vũ trụ vạn vật và để phát huy nhân cách đến cao siêu tuyệt đích, thoát khỏi ràng buộc của đời sống vật chất tầm thường. Bất cứ thời đại nào và bất cứ chỗ nào, hễ có người là cũng có ngay khuynh hướng tin tưởng thiêng liêng huyền bí. Vì vậy, tôn giáo là một yếu tố sinh tồn và tiến hóa của loài người. Nó đã luôn tác dụng suốt lịch sử nhân loại, từ lúc khởi thủy đến ngày nay.

          I. Đệ nhất kỳ phổ độ

          Theo các nhà khảo cổ về nhân chủng học, thì sự tiến hóa từ giai đoạn thú cầm qua giai đoạn nhân loại bắt đầu cách đây một triệu năm. Phải trải qua ngót một triệu năm, qua các giai đoạn người thú như loại Pithecanthropus, Sinanthroupus, éoanthropus (giống người tối cổ nửa người, nửa thú do các nhà nhân chủng học khám phá ra) đến cách đây 50.000 năm, mới xuất hiện giống người Homosapiens, đã có nhiều tương tự với giống người hiện nay. Nhưng đến cách đây trên một vạn năm, loài người thực thọ, có đủ trí óc tư duy trừu tượng và ngôn ngữ cảm thông mới ra đời. Các giống người tối cổ kể trên đã thấy sợ sệt đối với các hiện tượng chung quanh và chưa biết phân biệt thực tại với cảnh mộng, nhưng cũng đã biết tôn thờ người chết, bằng cách chôn theo người chết các vật dụng như khí giới, chén, bát,v.v..Họ cũng đã biết tôn thờ các vật mà họ coi như linh vật (Totem) không được xúc phạm bằng tay chân hay bằng nhìn ngó. Khi đã có ngôn ngữ, sự tín ngưỡng của họ trở nên tập tục chung, họ tập hợp nhau lại để làm các phép quỉ thuật (sorcellerie) để cầu các Đấng vô hình giúp đỡ họ hay để bài trừ các tai nạn ngẫu nhiên. Tín ngưỡng lúc bấy giờ còn chịu ảnh hưởng của lòng sợ hãi, nên có tính cách tiêu cực, nghĩa là có tính cách ngăn cấm những việc có thể làm phật ý quỉ thần.

          Tín ngưỡng bộ lạc

          Khi người Homo sapiens đã tiến đến giai đoạn đầy đủ trí óc, có đầy đủ bản năng, tình cảm và lý trí thì sự tín ngưỡng thiêng liêng trở thành rõ rệt. Họ tôn thờ một ông tổ bộ lạc, họ làm các phép thuật để tránh tai nạn và để cầu may (như các lễ tế vật, để cầu mưa thuận gió hòa cho sự trồng trọt được kết quả, cầu các tai ách, bệnh tật không đến tiêu diệt bộ lạc, v.v..). Khuynh hướng tín ngưỡng ở thần lực huyền bí chứa đầy cảm giác sợ hãi, tôn kính và nhất là hy vọng. Tín ngưỡng này thuộc về ba loại:

          a/ Tin tưởng có thế giới vô hình, thế giới của quỉ thần.

          b/ Tin tưởng có một sức mạnh thiêng liêng huyền bí, sai khiến các vật hữu hình, sức mạnh này vừa là Thần lực vừa là sinh lực và ý chí vạn vật (Mana).

          c/ Tin tưởng có linh hồn người chết sống ở một thế giới khác.

          Do các loại tin tưởng này, bộ lạc bước đến giai đoạn du mục và nông nghiệp bắt đầu tôn thờ các vật có liên quan mật thiết đến sinh hoạt hằng ngày của họ. Dân du mục ngồi chăn súc vật mà ngắm các hiện tượng chung quanh như sông sâu, núi hiểm, cây to, gió bão mà sợ sệt và tin có thần nước, thần núi, thần cây và thần gió. Dân nông nghiệp thờ mặt trăng, sấm chớp. Ngắm không gian vô tận với muôn vàn tinh tú cao xa yên lặng, họ tưởng tượng nên muôn vàn quỉ thần ở nơi cao xa, cũng như chung quanh họ. Một tảng đá, một gốc cây to, một con rắn dữ, đều là qui thần cả. Đó là tín ngưỡng bái vật (animisme).

          Quỉ thần nhân hóa

          Với bản năng tự tồn và đoàn kết, dưới sự thúc đẩy của nhu cầu sinh hoạt, người bộ lạc càng ngày càng cảm thấy yếu hèn đối với sức mạnh muôn vàn thần thánh chung quanh, càng thấy cần có một sức mạnh thiêng liêng đối phó lại. Các ông Tổ bộ lạc đã chết, được tôn thờ như thần thánh, có năng lực bảo vệ bộ lạc. Trong bộ lạc đã gây nên truyền thống lễ nghi mà người còn sống và tiếp nối sau phải noi giữ. Các lễ nghi truyền thần lực huyền bí để cạnh tranh sinh tồn, mà người thiếu niên bộ lạc IPIS hoặc Nama ở các đảo Úc Châu phải noi theo, đã chứng tỏ sự tiến triển từ quan niệm bái vật thô sơ đến quan niệm quỉ thần có nhân cách riêng biệt như người. Những người tù trưởng có nhân cách siêu việt và tài trí lỗi lạc xuất hiện, khiến tín ngưỡng của bộ lạc rời hình ảnh thú vật mà hướng về những thần linh có nhân tính.

          Đồng thời, quan niệm đạo đức xuất hiện trong tín ngưỡng. Trong Bộ lạc có những tập tục và giới cấm phải cùng chung noi theo. Sự giáo huấn con cái để noi giữ các tục lệ ấy và để kềm chế thú tính bản năng đưa đến sự đào tạo con người có nhân cách. Tinh thần đoàn kết sống chung và tập truyền tôn giáo đã gieo vào lương trí bộ lạc mầm giống đạo đức, để sau này phát triển với nhân cách đầy đủ, lương tâm cá nhân có thể cảm thông trực tiếp với thần linh. Đó là sự tiến bộ lớn trên lịch sử tín ngưỡng vậy.

          Đa Thần Giáo

          Đồng thời với sự kết hợp các bộ lạc thành bang quốc, tín ngưỡng con người cũng tiến từ quan niệm quỉ thần phức tạp đến một thiểu số quỉ thần uy lực tối nhiệm mầu. Thiểu số lãnh chúa và giáo sĩ nắm quyền điều khiển và cai trị dân chúng, dưới danh nghĩa một nhiều vị thần. Dân Ai Cập, dân Ấn Độ tin có ba vị thần tối cao quản trị thế gian. Dân Ba Tỷ Luân, Ba Tư v.v.. đều tôn thờ một thiểu số thần thánh. Các đền đài thờ riêng một vị thần được thành lập khắp nơi, các Chính phủ cai trị đầu tiên đều là những Chính phủ tôn giáo. Các vị Thủ lãnh là những người quyền úy trong bang quốc, thông cảm với thần thánh, có nhiệm vụ chăn dân trên đường tín ngưỡng. Khoảng trên hai ngàn năm trước Tây lịch kỷ nguyên, ở Trung Quốc xưa, có Ngũ đế (Huỳnh Đế, Phục Hi, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn) là những bậc vua hiền đức thờ trời. Ở Trung Đông, ông Abrabam được Chúa Trời hứa cho xứ Canaan, sau đó ông Moise được Chúa Trời truyền cho “Mười điều răn” trên núi Sinai. Ở Ba Tỷ Luân ông Hammourabi noi các nguyên tắc tín ngưỡng thiêng liêng mà lập ra bộ luật Hammourabi.

          Đây là lần thứ nhứt, thần nhân ứng hiện trên thế gian, quan niệm thần thánh đã có hệ thống và thần thánh và nhân loại đã liên quan trực tiếp bình đẳng. Theo Đạo Cao Đài, thời kỳ này gọi là Đệ nhứt kỳ Phổ Độ, có nghĩa như là thời kỳ thứ nhất phát huy tín ngưỡng thiêng liêng vậy.

          II. Đệ nhị kỳ Phổ độ

          Nhất thần giáo và phiếm thần giáo. Nhờ càng ngày càng tiến hóa, năng lực tư duy trừu tượng thêm phát triển, người ta biết hướng dẫn năng lực ấy theo các quan niệm tôn giáo đạo đức. Sự thành lập các đại đế quốc nhờ sự thống nhất quốc gia đem lại loài người một khuynh hướng thuần nhất tín ngưỡng. Hình ảnh một vị vua trị vì thiên hạ khiến họ nghĩ rằng trong vũ trụ cũng có một vị thần tối cao độc nhất. Với sự phát huy tư tưởng triết lý và đạo đức, quan niệm một vị thần độc nhất thích hợp với trình độ tiến hóa loài người. Tôn giáo loại trừ các tín ngưỡng lễ nghi cổ lỗ, phức tạp. Cần có một vị thần tối cao để đem lại trật tự trong đám đa thần. Tôn giáo cần cải tiến theo nhu cầu thời đại. Đó là kết quả của quan niệm nhân hóa quỉ thần vì khi đã nhân tính hóa thần thánh, sự không hợp lý và sự thấp kém thú tính không thể tồn tại. Thần thánh cần có tính cách hợp lý và cao siêu hơn mực bình phàm của loài người nên tôn giáo độc thần có một triết lý khúc chiết uyên thâm và đặc biệt chú trọng phương diện đạo đức nhân sinh.

          Mỗi dân tộc quan niệm một Đấng thiêng liêng cai quản vũ trụ và loài người một cách khác nhau, nhưng tất cả đều trở nên tin tưởng có một vị thần và chỉ một vị thần mà thôi. Đấng tối linh tối cao tạo hóa vạn vật, theo người Do Thái là Đấng Yahvé, người Ai Cập là Akhenaton, người Ba Tư là Ahura Mazda, người Hy Lạp là Zeus, người La Mã là Jupiter, người Ấn Độ là Varuna hay Brahma, người Trung Hoa là Thiên hay là Thượng Đế, người Việt Nam là Trời.

          Vị thần độc nhất này không thể hoặc thiện hoặc ác được, mà chỉ có thể tuyệt đối thiện, đó là gương mẫu toàn thiện mà loài người cố gắng thực hiện.

          Các Giáo sĩ trong các đền chùa đã rời bỏ quyền thế gian cho các vua chúa để chuyên tâm tu luyện, tìm cách siêu phàm nhập thánh, đạt đến cõi thiêng liêng của Thượng Đế. Do đó, một hạng người siêu đẳng, phát huy bản năng tôn giáo đạo đức đến cực độ, xuất hiện. Ấy là các bậc Giáo chủ.

          Các bậc Giáo chủ

          Từ khoảng thế kỷ thứ năm, thứ tư trước Thiên Chúa giáng sinh và sau đấy mấy thế kỷ nữa như có một hiện tượng tôn giáo đặc biệt phát hiện tương đương cùng một thời kỳ. Từ Âu sang Á xuất hiện một lượt các bậc Đại Thánh nhân, sáng lập các Tôn giáo có tánh cách nhất thần.

          Ở Trung Hoa có Lão Tử (khoảng 604 trước Tây lịch) lập ra Đạo giáo, có Khổng tử (551-479 trước TL) lập ra Nho giáo, ở Ấn Độ có Phật Thích Ca (khoảng 543 trước TL) lập ra Phật giáo, ở Ba Tư có Zoroastre (660-583) lập Đạo Zoroastrisme ở Cận đông có Chúa Jesus lập Thiên Chúa giáo, có Mahomet (570-632 sau TL) lập ra Đạo Hồi, các nhà triết lý Hy Lạp Pythagore, Socrate, Platon, Aristote, cũng sinh vào thời kỳ này.

          Đạo Hồi tôn thờ Đấng tối cao Chúa tể muôn loài tên Allah, Đạo Thiên Chúa thờ Đức Chúa Trời (Dieu) đạo Zoroastrisme thờ Ahura Mazda, Đạo Nho thờ Thượng Đế, Đạo Lão thờ Thái Cực đều là nhất thần giáo. Riêng Phật giáo có một tính cách đặc biệt, vì không nhận có một vị thần tối cao mà nhận có một căn tính thiêng liêng toàn chân, toàn thiện cho cả nhân loại, gọi là chân như bản tính hay là chơn tâm như như, phổ biến trong lòng mọi người và trong vạn vật. Đó là một loại phiếm thần giáo vậy.

          Các bậc Giáo chủ ấy, đã thực hiện được nhân cách toàn thiện cảm hóa hằng vạn triệu người biết thông cảm thiêng liêng và trau giồi đạo đức. Các vị ấy tiêu biểu sự tiến hóa tinh thần của con người vượt cao cực độ trên bản năng tầm thường của nhân loại, nên đã để lại ảnh hưởng sâu xa đến trăm ngàn thế hệ về sau.

          Thời kỳ Tôn giáo phát triển đến cực độ này gọi là Đệ nhị kỳ Phổ Độ.

          III. Đệ Tam Kỳ Phổ Độ

          Các Tôn giáo trên do các bậc Giáo chủ nhân cách hoàn thiện sáng lập chứa chấp sẵn mầm cá nhân chủ nghĩa. Vì vậy sau Đệ nhị kỳ, tư tưởng loài người tiến triển rất nhanh đến tự do tín ngưỡng và tư tưởng. Công phu giáo huấn tín đồ của các tôn giáo, cố gắng giáo dục quần chúng của vua chúa để tranh dành ảnh hưởng với giáo hội, cuối cùng sự phát minh máy in (thế kỷ XIV) đã đột nhiên phát triển trí thức loài người một cách nhanh chóng. Dần dà số người biết đọc biết viết càng ngày càng đông, càng có tư tưởng riêng biệt, càng có óc phê phán, đối với việc thế gian cũng như việc giáo hội. Một cuộc cách mệnh tôn giáo phát sinh dưới sự lãnh đạo của Luther (khoảng 1500) chống giáo hội của Giáo Hoàng và mở đầu cho tinh thần tự do tư tưởng bành trướng thoát ly các hệ thống tư tưởng cổ truyền Thời kỳ lý trí độc tôn đến.

          Khoa học phát triển. Từ thế kỷ XIII, Roger Bacon đã chống lại các hệ thống tư tưởng cổ truyền mà nhất quyết cổ xúy sự học thực nghiệm. Theo đó, ông Galilée (1546-1642) đã xướng ra học thuyết động lực (dynamique), chính ông đã phát minh rằng trái đất nhỏ hơn mặt trời và chạy vòng quanh mặt trời khiến giáo hội buộc ông phải cải chính, nhưng ông vẫn nói: “Nhưng mà trái đất vẫn quay kia mà”. Thật là trái với Thánh kinh cho rằng trái đất là trung tâm bất dịch của vũ trụ. Sau đó, câu nói “Tư duy là thực tại” (cogito ergo sum) của Descar’es càng thúc đẩy tư tưởng khoa học tiến mạnh thêm. Với học thuyết hấp dẫn lực của Newton ra đời, khoa học càng thịnh đạt, khiến Voltaire ca tụng khóa học tiến bộ vô biên. Đến đầu thế kỷ 19, học thuyết của Darwin ra đời, phủ nhận thuyết của Giáo hội nói rằng: Trời tạo ra con người và vạn vật trong thời gian 6 ngày, mà chủ trương rằng loài người do cầm thú tiến hóa lên trải qua hàng triệu năm. Đến đây, Renan tiên đoán rằng khoa học sẽ bóp chết Tôn giáo.

          Sự thật, tư tưởng khoa học thực nghiệm đương độ hăng hái phát sinh đã làm cho hoang mang tinh thần tín ngưỡng không ít. Nhưng cũng nên nhìn nhận rằng các nhà khoa học khởi thủy như: Galilée, Descartes, Bacon, Pascal, Newton,v.v.. không phải là vô tôn giáo, chính họ đã cảm thông tư tưởng tôn giáo thiêng liêng mà phát minh các định luật khoa học vậy. Chẳng những thái độ hoài nghi khoa học mà chính sự khám phá những cái cực nhỏ cũng như những cái cực lớn trong vũ trụ đã khiến họ trở lại tin tưởng thiêng liêng huyền bí hơn, cố nhiên tin tưởng một cách khoa học. Họ đã công nhận hiện tượng tôn giáo cũng như hiện tượng khoa học đều là những hiện tượng thực tại, khác nhau ở chổ một bên thuộc nội tâm, và một bên ở ngoại giới (Husserl), cho nên nhà thiên văn học trứ danh Jeans đã nói: “Tất cả trong vũ trụ đều chứng minh một cách quyết đoán rằng có một sự Tạo hóa nhất đinh. Vũ trụ không thể do ngẫu nhiên mà có”. Nhưng khoa học chỉ có thể nghiên cứu hiện tượng sự vật mà không thể nghiên cứu đến bản thể sự vật được. Tôn giáo tỏ ra cần thiết để bổ khuyết điều ấy. Nhờ đó, các Tôn giáo bị áp đảo một thời kỳ vì tư tưởng tự do phóng khoáng, nay gặp thời vận phục hưng. Các Tôn giáo Thiên Chúa, Phật Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo.v.v.. được truyền bá hoặc nghiên cứu tận những nơi xa lạ. Các Hội công đồng tôn giáo Quốc tế giúp cho các tôn giáo hiểu biết nhau và nhân đó gây mối đồng tình tín ngưỡng. Đạo Cao Đài xuất hiện. Thực xưa nay, chưa có bao giờ tôn giáo được phổ biến rộng rãi khắp thế giới như vậy.

          Thời kỳ này gọi là đệ Tam kỳ phổ độ.

          Duy vật vô thần

          Nhưng tôn giáo đương phục hưng một thời kỳ vô cùng gay go. Về tư tưởng, say mê phương pháp thực nghiệm cụ thể người ta đã thành tánh quen quan niệm sự vật một cách vật chất máy móc. Về xã hội, cơ khí nhờ khoa học phát đạt đã gầy dựng lên những nhà tư bản triệu phú sang trọng phú quý và ngược lại, cũng đã tạo nên vô số lao động nghèo khổ, gây thành một sự đấu tranh quyền lợi lớn lao chưa từng thấy. Nghiên cứu lịch sử nhân loại về phương diện tranh đấu giai cấp, người ta kết luận rằng loài người chỉ là một con vật hoàn toàn do hoàn cảnh kinh tế chi phối. Trong tâm của lịch sử đã là kinh tế thì chỉ còn cách tranh đấu đoạt thủ kinh tế mà thôi.

          Chính trị, mỹ thuật, tôn giáo, đạo đức, triết lý, pháp luật .v.v.. đều là sản phẩm của giai cấp thống trị đặt ra, tức là phản ảnh một trạng thái kinh tế áp bức bóc lột. David Strauss, Bruno Bauer, nhất là Fuerbach, Karl Marx và Engels (1820-1895) đã dùng biện chứng duy vật để đã kích tôn giáo, phủ nhận Thượng Đế, cho rằng thần thánh chỉ là tưởng tượng do giai cấp thống trị bịa đặt theo quan niệm quyền lợi kinh tế của họ. Chưa bao giờ tôn giáo bị phản đối phủ phàng như vậy. Sự mâu thuẫn giữa duy vật và duy tâm, tôn giáo và vô thần là con đẻ bất ngờ của khoa học thuở ban đầu và hiện là nỗi khổ vô hạn của nhân loại vậy.

          Với gốc rễ bền chặc từ khi phát sinh nhân loại, Tôn giáo không dễ nhất đán bị phá tan Phản lực của duy vật vô thần có thể coi như hiểm tượng nhất thời.

          Tuy nhiên, cuộc cách mệnh vô sản hiện nay cũng làm nổi bật hai điều là:

          a/ Đa số nhân loại đã hấp thụ tư tưởng tự do, bình đẳng, công lý của văn minh khoa học nên tha thiết thực hiện nhân cách và phát triển cực độ bản năng để thoát ra ngoài đời sống vật chất tầm thường mà sống một cuộc đời tinh thần tự do cao siêu, quang minh.

          b/ Tất cả một người hy vọng một hạnh phúc tập thể cho toàn nhân loại.

          Hai mỗi nhu cầu này, hợp với nhu cầu tiến bộ khoa học đã nói trên kia, là ba nhu cầu sâu rộng của toàn nhân loại hiện nay. Không một công cuộc hướng dẫn nhân loại nào thành tựu, nếu không thỏa mãn ba nhu cầu ấy. Vì vậy, Tôn giáo mà thâm tâm nhân loại hiện nay mong ước cần có ba điều kiện sau:

          1/ Tôn giáo mới phải là tôn giáo đại đồng, liên hiệp mọi tín ngưỡng thành một cộng đồng tín ngưỡng.

          2/ Tôn giáo mới không phản khoa học, trái lại mạnh dạn điều hòa với khoa học. Tôn giáo cần sửa đổi theo tinh thần khoa học.

          Nguyên lý có thể bất di bất dịch, song các cách phô diễn phát hiện phải có tính cách khoa học chính xác, không huyễn hoặc mơ hồ.

          3/ Tôn giáo mới phải đặc biệt chú trọng vấn đề nhần sinh trong khuôn khổ tín ngưỡng Tôn giáo phải tỏ ra thiết thực đại chúng có tánh cách phụng sự con người, chứ không phải để cầu khẩn suông.

          Ba điều kiện này hiện đang được thực hiện trong giáo lý đạo Cao Đài, một tôn giáo đại đồng khoa học và duy nhất.

          Vì vậy mà đạo Cao Đài được gọi là Đại Đạo của Đệ Tam Kỳ Phổ Độ.

          KẾT LUẬN. Suốt lịch sử nhân loại, Tôn giáo mật thiết với nhân sinh như bóng hình. Trải qua nhất kỳ và nhị kỳ phổ độ, tôn giáo đã dẫn dắt người từ đời sống vật chất tiến tới đời sống tinh thần thanh cao. Mỗi một kỳ phổ độ, xuất hiện những nhân vật đã thực hiện được nhân cách cao siêu tuyệt luân. Đến thời kỳ phổ độ thứ ba này, nhờ một Tôn giáo mới, đại đồng khoa học và duy nhân loài người sẽ thực hiện được hạnh phúc đại đồng điều hòa với khoa học tiến bộ, tự tại trong đạo đức cao khiết. Như vậy không chỉ có một số ít người thực hiện được hoàn toàn nhân cách cao thượng, mà cả thảy loài người thực hiện được nhân cách một cách mỹ mãn trọn vẹn. Trong thế giới đại đồng cực lạc ngày mai, người và thần tiên có một.

          Đến đây, Tôn giáo hoàn thành sứ mạng và đó là mục tiêu của Đệ Tam Kỳ Phổ Độ vậy.

TRẦN QUỐC LUYỆN

(Bài đã đăng trong Nguyệt san Nhân Sinh 15/9/1954)


(Hình copy từ trang https://giaoxuchauson.vn/song-dao/albert-einstein-ton-giao-854.html)

0 Bình luận