THẦN NỮ NGUYỄN THỊ NGẠI
Bà Nguyễn Thị Ngại sinh năm 1906 tại xã An Khê, nay là
Phường An Khê, Quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng. Con cụ ông Nguyễn Hữu Thêm và
cụ bà Huỳnh Thị Mùi, một gia đình Nho học truyền thống.
Lúc 12 tuổi (Mậu Ngọ - 1918) bà lâm
trọng bịnh, ông bà thân lo thuốc thang điều trị. Lúc khỏi bịnh bà bị câm không
nói được, chỉ ăn nằm một chổ ít đi lại. Nhưng lạ là thân thể bà ngày phương phi
mập mạp, sắc diện ngày càng tươi trẻ hồng hào. Bà con chòm xóm lấy làm ngạc
nhiên, tiếng đồn ra ngoài làm cho nhiều người hiếu kỳ rủ nhau lại xem rất nhiều.
Lúc ấy có ông Bác Di, người Đại Lộc, là lái buôn tơ tằm thường xuống nhà thân
phụ bà Ngại mua tơ, nghe lời đồn cũng đến thăm cho biết thật hư. Ông cầm hai
bàn tay của bà lúc ấy cảm thấy mềm mại dịu dàng, vẻ mặt thì phong lưu quý phái.
Ông bảo rằng: “Nếu như cô này nói được và mai sau có chồng sanh con rất là
thông minh”.
Cho đến đêm 19 rạng ngày 20 tháng 02,
là ngày kỵ cơm cho ông thân bà. Bà nằm chiêm bao thấy ông thân về có dẫn theo một
người đàn bà rất thùy mị đến chỗ bà nằm và viết trên miệng của bà hai chữ gì
không rõ. Liền đó bà giựt mình thức dậy kêu lớn tiếng: Cha ơi! Cha ơi! Cha ơi!
Mẫu thân của bà cùng mấy chị em nghe la, chạy vào hỏi.
Sau khi nghe bà kể lại ai nấy đều vui mừng hớn hở, trầm trồ bán tán đó là Thần
Tiên đến khai khẩu, thật là ơn phước cho gia đình. Như vậy từ khi bà bị câm cho
đến khi nói được là 9 năm tức là năm Bính Tý (1936).
Sau đó có ông Khóa Thông làm giáo học, bạn thân với
ông Nguyễn Hữu Trân (thường gọi ông Hòa Phát có tiệm thuốc Hòa Phát Đường, là
em ruột của bà), đến hỏi bà làm vợ. Bà từ chối và xin thân mẫu đi tu.
Bà nhập môn cầu Đạo tại Thánh thất Trung Thành năm
Đinh Sửu (1937). Sau lễ nhập môn, bà về nhà xin phép mẫu thân xuất gia ở chùa lập
công tu học. Khi về ở Thánh thất, bà đảm trách việc quản lý lương thực, trù
phòng, tiếp tế, nấu ăn, đi chợ và tiếp đón đạo hữu xa gần về lập công.
Công quả lớn và nổi bật của bà là vào những ngày Lễ
Khánh thành và đại hội Vạn linh có cả hàng ngàn người mà bà vẫn chu toàn trách
nhiệm. Tiếp đến Hội Thánh thành lập Cửu viện, các Anh lớn, chư Chức sắc chức việc
các nơi về lập công xây dựng các cơ sở Cửu viện, nhất là cơ quan học viện có
khoảng 200-300 học viên về học văn hóa và giáo lý. Thế mà bà vẫn vui vẻ lo nấu
nướng tiếp đãi chu tất.
Năm 1942, Thánh thất bị đóng cửa, các anh Lớn bị cầm
tù, chư Chức sắc bị Thực dân khủng bố. Chỉ còn bà và bà Cử hằng ngày tu học cầu
nguyện, không hề nao núng chí tu.
Mãi đến cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1946 (Bính Tuất),
Pháp tái chiếm Đà Nẵng, tất cả Đạo hữu đều tản cư lên sở nông Hội Thánh ở Tý Sé,
thuộc huyện Quế Sơn. Riêng đạo tỷ Nguyễn Thị Ngại nhất quyết nguyện ở lại giữ Thánh
thất mặc dù anh em hết lòng khuyên nhủ. Đau đớn thay! nơi đây là nơi giao chiến
giữa hai bên, đạn pháo đã làm sụp đổ hoàn toàn ngôi Thánh sở nguy nga tráng lệ
thuở ấy, đạo tỷ Nguyễn Thị Ngại đã tử nạn!
Ngày 15.3 Giáp Thìn (1964), Ơn Trên cho đạo tỷ về cơ.
Qua bài thơ tứ tuyệt, đạo tỷ đã xưng danh và quả vị là Thần nữ, đồng thời có ý
khuyến tu cho nữ phái:
Phước Thiện,
ngày 15.3.ĐĐ 38
Thi:
Lòng thành
THỊ hiện ở hôm nay
Hơn thiệt NGẠI chi chẳng bảo này
Muốn được THẦN hồn cho thanh khiết
Đường tu NỮ sĩ phải mê say.
***
Mê say mùi đạo mới về Thầy
Thế sự
nhơn tình phải lãng khuây
Cuộc thế mấy
ai muôn tuổi sống
Mà lo danh
lợi suốt đêm ngày.
Nữ thần chào chư hiền huynh Thiên ân phận sự và chư hiền
tỷ, hiền muội nội đàn.
Hôm nay Nữ thần may mắn được lịnh Ơn Trên ghé về đây để
tỏ tấm lòng thương nhớ nhau, một cơ hội hiếm có. Hồi tưởng lại thời gian qua,
nghĩa là khi tôi còn chung sống với chị em, xét ra về phần tu học thì tôi còn
kém hơn chị em nhiều, rất tiếc và cũng rất rủi ro cho tôi là khi đó nền chánh
pháp tâm truyền vô vi Trung Đạo chưa được thị hiện, dù có muốn cũng không sao
có được. Thầy Mẹ chỉ tương công chiếc tội, thấy ở tôi có lòng trung trinh có một
đức tin mạnh mẽ, một công quả ít nhiều, nên cho vào hàng Thần Nữ, nhưng vẫn còn
ở trong vòng sanh tử, làm sao hân hạnh được như chị em chúng ta ngày hôm nay. Bởi
sự chí thành và lòng từ bi của Thầy Mẹ cho về cơ để lập công và cũng nương theo
luồng điển chung của chư huynh tỷ để dồi luyện chơn thần.
Này quý chị em ôi! Đời là giấc mộng có chi đâu, thân
con người sinh ra dù giàu hay nghèo, sang hay hèn có mấy ai mà thoát ra ngoài
vòng tứ khổ. Nếu biết tu hành sống trong nền đạo đức thì mới thấy bao nhiêu
công việc ở đời là giả tạm phù vân. Những người chưa giác ngộ họ cho đó là thiệt,
suốt đời họ đem hết cả tài năng trí lực mà phụng sự cho cái giả, đến khi ma tử
thần dẫn dắt thì mới ô hô cuộc thế dã tràng, dù chồng đẹp con yêu nhà cao cửa rộng,
vàng bạc đầy kho cũng không sao đem theo một mảy được. Đã thế mà linh hồn vì
gây ra tội lỗi ác nghiệp phải bị quả báo luân hồi làm ma làm quỷ, làm súc vật đời
đời, khó có ngày mà trở lại với con người như chị em chúng ta hôm nay.
Tôi được lịnh trên chia cắt cho một phận sự để lập
công là gần gũi hiền tỷ, hiền muội để đem những lời chỉ huấn của Ơn Trên mà
trao truyền lại, tôi đến với chị em không ngoài tấm lòng thương yêu nhắc nhở.
Bao nhiêu lời đã tỏ bày mong quí chị em ghi nhớ, tôi đã được phép chung góp với
chị em về công việc xây dựng tình thân hữu và nền sơ bộ đại đồng.
BÀI
Nền sơ bộ đại đồng
xúc tiến,
Hỡi chị em cùng nguyện
thi hành;
Cùng nhau
chung sống đường lành,
Xây mình, dựng bạn cho thành
mau lên.
Đại đồng xã xây nền
dựng móng,
Chị em mình chóng
chóng chung lo;
Dù cho phải
lúc gay go,
Bước lên, một dạ lần mò bước
đi.
Ấy chẳng qua bài học
luyện mài;
Khuyên
cùng tất cả ai ai,
Hư nên nhắc nhở quấy sai bảo
bày.
Khuyên đừng có ỷ hay
chê dở,
Phải cùng nhau nâng
đỡ dắt dìu;
Cho nhau với
những tình yêu,
Dầu chi chi cũng nâng niu đỡ
đần.
Mỗi người đều bản
thân xây dựng,
Lo làm sao hiếu thuận
cho tròn;
Gia đình
trọn nghĩa dâu con
Hữu bằng lân ấp nước non đượm
tình.
Sao cho được đẹp
xinh cây Đạo,
Sao cho xứng người
thọ giáo Kỳ ba;
Đã đồng một
Đạo một Cha,
Chị em ta phải ruột rà với
nhau.
Trong một Đạo nghèo
giàu chia sớt,
Một cọng rau trái ớt
cũng chia;
Nhắc nhau
dậy sớm thức khuya,
Trên đường tu học chớ lìa chớ
lơi.
Bớt lần lần thói đời
hư tệ,
Đường về Trời chớ trễ
tràng nghe;
Có công có
quả đừng khoe,
Dại khôn ta cũng chở che bảo
bày.
Chớ đừng có khi say
khi tỉnh,
Hễ tu hành phải tịnh
phải an;
Chớ cho
danh lợi buộc ràng,
Thị phi xáo lộn tâm can đảo
huyền.
Chị em đã gặp duyên
gặp phước,
Thì phải lo đón rước
vào mình;
Người nào
lơ đễnh coi khinh,
Thời cơ đi mất đời mình tiêu
vong.
Kẻ gánh việc làm
xong phận sự,
Phải hết lòng chăn
giữ đàn chiên;
Hễ làm nắm
lấy chánh quyền,
Không tròn trách nhiệm tiền
khiên tội tình.
Không chỉ những thân
mình chịu khổ,
Mà Cửu Huyền Thất Tổ
chịu lây;
Lỗi lầm
khuyên chớ chuốc gây,
Chuốc gây tội lỗi, Mẹ Thầy
khó thương.
Chị em đã sẵn đường
cứu độ,
Mỗi người đều có chỗ
cậy nương;
Đường này
thẳng đến Tây phương,
Từ nay ta bạn níu nương thẳng
về.
Tôi mãi mãi muốn được gần gũi chị em, nhưng đã đến giờ
Đức Quan Âm Bồ Tát nhập cơ. Vậy chị em hãy thành tâm thủ lễ để đón rước, tôi
xin phép xuất cơ.
0 Bình luận